Trở lại binh nghiệp Linh_Quang_Viên

Quân đội Liên hiệp Pháp

Cuối năm 1946, sau khi Đệ tam khu chiến tan vỡ ông trở về Hà Nội và bị An ninh Quân đội Pháp bắt giữ điều tra. Sau đó, ông được trả tự do và tình nguyên tái ngũ vào Quân đội Liên Hiệp Pháp với cấp bậc cũ (Thiếu úy). Tháng giêng năm 1947, ông được cử giữ chức vụ chỉ huy Trung đội Nùng ở Tiên Yên, Móng Cái, luân phiên hành quân vùng biên giới Việt-Hoa. Tháng 9 cùng năm ông được thăng cấp Trung úy, biệt phái giữ chức vụ Phụ tá cho Đại tá Vòng A Sáng[3] Chỉ huy trưởng khu Tự trị Nùng ở Móng Cái. Cuối năm, ông được cử làm Chỉ huy trưởng trường Thiếu sinh quân Móng Cái kiêm làm trung gian giữa Văn phòng Quốc trưởng Bảo Đại ở Hà Nội và Khu Tự trị Nùng Ở Móng Cái để sáp nhập Khu tự trị vào Hoàng triều Cương thổ.

Năm 1949, ông rời chức vụ Chỉ huy trưởng trường Thiếu sinh quân để đi thành lập Bảo chính đoàn Bắc Việt tại Hà Nội do Đại tá Hoàng Văn Tỷ[4] làm Chỉ huy trưởng. Ông được mang cấp bậc Trung tá Bảo chính đoàn (cấp bậc giả định) và được giữ chức vụ Tham mưu trưởng kiêm Giám đốc trường Sĩ quan Bảo chính đoàn Nam Đồng, Hà Nội.

Quân đội Quốc gia

Đầu năm 1950, ông được cử làm Chánh Võ phòng cho Quốc trưởng Bảo Đại, nhận lệnh thành lập Ngự lâm quân và được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Ngự lâm quân tân lập tại Đà Lạt. Sau đó ông chính thức gia nhập Quân đội Quốc gia với cấp bậc Đại úy.

Tháng 6 năm 1952, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử đi học khóa tham mưu tại trường Tham mưu Paris, Pháp.[5] Đầu năm 1953, mãn khóa về nước ông được thăng cấp Trung tá và được bổ nhiệm làm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Ban Mê Thuột kiêm Tư lệnh Đệ tứ Quân khu Cao nguyên. Tháng giêng năm 1954, tham gia Chiến Dịch Atlante ở Trung Việt gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Tháng 6 cùng năm ông được thăng cấp Đại tá tạm thời và chính thức nhậm chức Tư lệnh Đệ tứ Quân khu.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Đầu tháng 5 năm 1955, ông thừa lệnh Thủ tướng Diệm giải tán Ngự lâm quân, sau khi đã thuyết phục được Đại tá Nguyễn Tuyên[6] để tránh đổ máu. Sau đó Lực lượng này được sáp nhập vào Quân đội Quốc gia. Đầu năm 1956, bàn giao Đệ tứ Quân khu lại cho Đại tá Thái Quang Hoàng, đi du hành quan sát các nước Đông Á, Đông Nam Á và Úc, tìm hiểu về chiến lược phòng thủ vĩ tuyến. Đầu năm 1959, ông được cử đi du học khóa (1959 - 1) Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ[7]. Đầu tháng 6 cùng năm mãn khóa về nước, ông được cử giữ chức vụ Phó Tổng thư ký Bộ Quốc phòng, Phụ tá Tổng Thư ký là Thiếu tướng Trần Văn Minh.

Năm 1963, sau khi tham gia cuộc đảo chính chế độ gia đình trị họ Ngô (ngày 1 tháng 11). Ngày 2 tháng 11 ông được thăng cấp Thiếu tướng giữ chức vụ Phó Tổng tham mưu trưởng Đặc trách Tiếp vận.

Sau cuộc Chỉnh lý ngày 30 tháng 1 năm 1964 của tướng Nguyễn Khánh. Đầu tháng 2, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh thay thế Đại tá Nguyễn Thanh Sằng[8] Tháng 9 cùng năm, bàn giao Sư đoàn 22 lại cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu (nguyên Tham mưu trưởng Quân đoàn I). Sau đó, ông được cử chức vụ Giám đốc Nha An ninh Quân đội thay thế Đại tá Nguyễn Ngọc Loan.

Trung tuần tháng 1 năm 1965, bàn giao Nha An ninh Quân đội lại cho Trung tá Trang Văn Chính[9]. Sau đó tham chính giữ chức vụ Tổng trưởng Thông tin Tâm lý chiến và kiêm chức vụ Ủy viên Thường vụ Chính trị trong Hội đồng Quân lực do Đại tướng Nguyễn Khánh làm Tổng tư lệnh. Cuối tháng 5 cùng năm, chuyển về Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân.

  • Thời gian ông giữ chức Tham mưu trưởng Liên quân, trải qua 3 vị Tổng Tham mưu trưởng:
    -Trung tướng Trần Văn Minh (từ tháng 2 đến tháng 7/1965)
    -Trung tướng Nguyễn Hữu Có (từ tháng 7 đến tháng 10/1965)
    -Đại tướng Cao Văn Viên (10/1965-4/1975)

Trung tuần tháng 4 năm 1966, bàn giao chức Tham mưu trưởng lại cho Thiếu tướng Bùi Hữu Nhơn (Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn) để trực tiếp giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Nội các Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ. Ba tháng sau kiêm Đặc uỷ trưởng Phủ Đặc uỷ Trung ương Tình báo trước đó do Đại tá Nguyễn Ngọc Loan Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia kiêm nhiệm. Cuối tháng 10 năm 1967, ông được thăng cấp Trung tướng. Sang tháng 11, Tổng trưởng Nội vụ trong Nội các Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc. Tháng 5 năm 1968, ông rời chức vụ Tổng trưởng Nội vụ để trở lại phục vụ Quân đội.

Đầu năm 1969, ông được cử giữ chức Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa (Đồng Đế)[10] thay thế Đại tá Lê Văn Nhật[11]. Đến đầu tháng 7 năm 1972, bàn giao Quân trường Đồng Đế lại cho Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh. Sau đó ông được cử đi Du hành Quan sát các Quân trường ở Hoa Kỳ.

Đầu năm 1973, về nước ông được cử làm Tổng Thanh tra Quân đoàn III do Trung tướng Nguyễn Văn Minh làm Tư lệnh và Quân đoàn IV do Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư lệnh. Đầu tháng 3 cùng năm ông được giải ngũ với lý do đã phục vụ Quân đội trên 20 năm.

Tháng 5 năm 1974, ông được bổ nhiệm đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại nước Cộng hòa Trung Phi. Sang tháng 1 năm 1975 kiêm nhiệm thêm chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại nước Cộng hòa Tchad.

Liên quan